Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN - A:
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Xh 22, 20-26; 1Tx 1, 5c-10; Mt 22, 34-40
------†------
1. Mến Chúa yêu người
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
Không có nhận xét nào: