Thông Tin Bên Lề

Nhạc xuân

Tháng Thánh Giuse

HÃY KẾT BẠN VỚI

Ảnh

Liên kết web

VIDEO GIÁO XỨ

CHA QUẢN XỨ

HÃY NHANH TAY

1
GIÁO XỨ LÀNG RÀO

Magazine

Smoke

Natural

Feature

Video News

Vatican - Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng tôn phong hai vị tiền nhiệm Gioan XXIII và Gioan Phaolô II lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự rất đông đảo của các hồng y, giám mục, linh mục và giáo dân đến từ các nước… Chúa Nhật 27- 4 - 2014 thực là một ngày đặc biệt trong lịch sử Giáo hội. Giới báo chí gọi là "Chúa Nhật 4 Giáo hoàng": lần đầu tiên hai vị Giáo hoàng cùng được tôn phong hiển thánh trong một buổi lễ và lần đầu tiên hai vị Giáo hoàng, một vị đương kim và một vị cựu, cùng hiện diện trong buổi lễ, Đức Phanxicô và Đức Bênêđictô XVI...

Thánh lễ kéo dài 2 giờ 10 phút và kết thúc lúc 12 giờ 10. Đức Thánh Cha đặc biệt chào thăm Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI trước khi chào các vị trưởng phái đoàn của các nước.


----------
Buổi lễ diễn ra tại Quảng trường Thánh Phêrô được sự hiện diện của hàng trăm ngàn tín hữu hiện diện tại khu vực Đền thờ và vùng phụ cận, không kể hàng chục ngàn người khác tham dự thánh lễ qua các màn hình khổng lồ được bố trí tại một số nơi ở Roma, cũng như tại Quảng trường trước Nhà Thờ chính tòa Milano, cách Roma khoảng 500 cây số. Theo đô trưởng Roma, Ông Ignazio Marino, hàng tỷ khán thính giả trên thế giới cũng theo dõi buổi lễ đặc biệt này qua truyền hình và các phương tiện truyền thông khác.

Trên thềm Đền thờ, bên trái lễ đài từ dưới nhìn lên, được dành cho 150 hồng y và 700 giám mục, còn bên phải được dành cho các vị quốc trưởng, thủ tướng, các quan chức và đại sứ thuộc 120 phái đoàn chính thức của các nước và nhiều cơ quan quốc tế, các đại diện tôn giáo, Chính Thống, Anh giáo và cả Hồi giáo.

Hàng ngàn tín hữu đã qua đêm tại khu vực cạnh Quảng trường Thánh Phêrô, để lúc gần 6 giờ sáng, vừa khi được phép, họ tiến ngay vào khu vực dự lễ. Bầu trời Roma mây dày, nhưng phần lớn thời gian không có mưa, nên tránh được nhiều vụ cảm nắng.

Sơ lược tiểu sử hai vị tân Hiển Thánh

- Đức Giáo hoàng Gioan XXIII

Đức Gioan XXIII tên đời là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh ngày 25.11.1881 tại Bergamo, bắc Italia, trong một gia đình 13 người con, Angelo là người thứ tư. Bé Angelo đã được rửa tội ngay ngày chào đời và đã sống thời thơ ấu trong bầu khí Đức Tin mạnh mẽ của gia đình và giáo xứ. Sau khi nhận lãnh Bí tích Thêm Sức và rước lễ lần đầu năm 1889, Angelo gia nhập Chủng viện Bergamo và theo học tại đây cho đến hết năm thần học thứ hai. Cũng trong thời gian này thầy bắt đầu viết một loạt nhật ký thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời, sau này được xuất bản với tựa đề Nhật ký của linh hồn. Từ năm 1901 đến 1905, thầy học tại đại chủng viện Roma và trong thời gian này, đã chu toàn bổn phận quân dịch bắt buộc. Ngày 10.08.1904, thầy Angelo Roncalli thụ phong linh mục tại nhà thờ Thánh Maria trên núi thánh ở quảng trường Nhân Dân trung tâm Roma. Nhiệm vụ đầu tiên của cha Roncalli là thư ký cho Đức cha Giacomo Radini Tedeschi, tân GM Bergamo, tháp tùng Đức cha trong các chuyến công du, phụ tá ngài trong mọi hoạt động mục vụ đồng thời, giảng dạy các bộ môn giáo sử, giáo phụ học và hộ giáo tại chủng viện giáo phận. Trong thế chiến thứ nhất, Cha Roncalli bị tổng động viên tái nhập ngũ trong ngành quân y rồi tuyên úy các bệnh viện hậu phương. Sau thế chiến, cha mở nhà sinh viên và được chỉ định làm linh hương chủng viện vào năm 1919.

Từ năm 1921, bắt đầu giai đoạn 2 trong đời Cha Roncalli: giai đoạn phục vụ Toà Thánh. ĐGH Bênêđictô XV gọi cha về Bộ Truyền giáo và 4 năm sau đó, 1925, Đức Pio XI chỉ định cha làm Kinh lược Tông toà Bulgari và nâng cha lên hàng GM. 10 năm sau, Đức cha được chỉ định làm Đại diện Tông toà tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Những năm làm việc tại những môi trường thật khó khăn này đã giúp Đức Cha thu thập những kinh nghiệm hay đẹp, nhưng cũng đã làm cho Đức cha chịu nhiều hiểu lầm đau khổ. Trong thời thế chiến thứ hai, Đức cha đã cứu được nhiều người Do Thái nhờ tư cách ngoại giao. Năm 1953, Đức cha Roncalli được nâng lên hàng hồng y và 5 năm sau đó, khi ĐGH Pio XII qua đời, Hồng y đoàn đã bầu ĐHY Roncalli vào nhiệm vụ chủ chăn giáo hội hoàn vũ với tên gọi là Gioan XXIII. Suốt triều đại giáo hoàng của ngài, Đức Gioan XXIII đã được toàn thế giới yêu mến, xem là hình ảnh đích thực nhất của một chủ chăn nhân lành, đơn sơ nhưng can đảm, hiền hoà những đầy sáng kiến, nổi bật nhất là quyết định triệu tập Công đồng Vatican II. ĐGH Gioan XXIII qua đời chiều ngày 03.06.1963. Ngài được Đức Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 03.09.2000 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

- Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Karol Jozef Wojtyla sinh ngày 18.05.1920 tại Wadowice, Ba Lan. Tuổi thơ của Karol mang nhiều tang tóc. Bà mẹ Emilia qua đời năm 1929, Karol vừa lên 9 tuổi, Năm 1932, đến lượt người anh trai bác sĩ Edmund và năm 1941, Karol mồ côi cha. Năm lên 9 tuổi, Karol được rước lễ lần đầu và lãnh bí tích thêm sức năm 18 tuổi. Năm 1938, sau khi hoàn tất bậc trung học tại Wadowice, Karol ghi danh vào trường đại học Jagellonica tại Cracovia. Năm sau 1939, quân Đức quốc xã xâm lăng đóng cửa các trường đạo học Ba Lan. Karol phải đi làm công nhân trong một xưởng đẽo đá rồi trong hãng hóa học Solvay để sống và để tránh khỏi bị lưu đày sang Đức. Đồng thời Karol cũng phát triển tài năng kịch nghệ bẩm sinh. Giữa bao nhiêu khó khăn cấm cản của quê hương Ba Lan bị quân Đức chiếm đóng, Karol khám phá ra ơn gọi tu trì và quyết định xin theo các khoá huấn luyện đào tạo linh mục lén lút tại Cracovia, do Đức TGM Adam Stefan Sapieha điều động.

Chiến tranh chấm dứt, thầy Karol tiếp tục việc học tại Đại Chủng viện Cracovia và tại phân khoa thần học Đại học Jagellonica cho đến khi thụ phong linh mục ngày 01.11.1946. Sau đó cha được gửi sang Roma tiếp tục học tiến sĩ thần học. Năm 1948, cha trở về quê hương làm phụ tá trong các giáo xứ phụ cận Cracovia, linh hướng sinh viên, giảng dạy các bộ môn thần học luân lý đạo đức tại đại chủng viện Cracovia và tại phân khoa thần học Lublino. Tháng 7 năm 1958, ĐGH Pio XII chỉ định cha làm GM phụ tá Cracovia. Tháng 1.1964, Đức cha Wojtyla được ĐTC Phaolô VI chỉ định làm TGM Cracovia và 3 năm sau đó, 1967, nâng lên hàng hồng y. Đức cha tham gia các hoạt động của Công đồng Vatican II, cộng tác vào việc soạn thảo Hiến chế Vui mừng và Hy vọng. Khuôn mặt và hoạt động của Đức cha nổi bật lên trong môi trường Giáo hội Ba Lan đang nằm trong kềm kẹp của xã hội cộng sản bấy giờ.

Ngày 16.10.1978, ĐHY Wojtyla được HY đoàn bầu lên làm Giáo hoàng với tên hiệu là Gioan Phaolô II và chính thức nhậm chức ngày 22 tháng 10 sau đó. Ngày 13.05.1981, ĐGH Gioan Phaolô II đã bị mưu sát nhưng thoát chết nhờ bàn tay che chở của hiền mẫu Maria. Ngài đã tha thứ cho kẻ mưu sát mình và ý thức là đã được ban cho một cuộc sống mới, người đã miệt mài hoạt đông phục vụ không biết mỏi mệt. Chưa có vị Giáo hoàng nào đã viếng thăm gặp gỡ với tín hữu nhiều như Đức Gioan Phaolô II. Ngài qua đời lúc 21 giờ 37 ngày 02.04.2005 tại Dinh Tông Toà trong nội thành Vatican. Lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II đã được vị kế nhiệm là ĐGH Bênêđictô XVI, từng là cộng sự viên của ngài trong nhiều năm trời, chủ sự tại quảng trường thánh Phêrô ngày 01.05.2011.

Thánh lễ

Lúc hơn 9 giờ 30, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI tiến vào địa điểm hành lễ, giữa tiếng vỗ tay chào mừng của mọi người. Ngài ngồi ở ghế đầu dành cho các hồng y, phía sau đã có 700 giám mục trong phẩm phục đồng tế ngồi sẵn.

Các tín hữu cũng cảm động vỗ tay như vậy khi Tổng thống Italia, ông Giorgio Napolitano, và phu nhân đến chào ngài, khi đến khu vực dành cho các vị nguyên thủ quốc gia.

10 giờ kém 5 phút, trong khi ca đoàn và mọi người hát Kinh Cầu các Thánh, đoàn 150 hồng y đồng tế bắt đầu tiến từ bên trong Đền thờ Thánh Phêrô tiến ra lễ đài, đi trước là các vị Thượng phụ và TGM trưởng của các Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương. Đi sau cùng là ĐTC Phanxicô. Ngài xông hương bàn thờ xong và tiến lại chào vị tiền nhiệm Bênêđictô XVI của ngài, trước khi tiến đến bái kính tượng Đức Mẹ và đến ngai toà.

Nghi thức phong hiển thánh bắt đầu với 3 lần ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh toàn thể Giáo Hội xin ĐTC ghi tên hai Chân phước Gioan XXIII và Gioan Phaolô II vào Sổ Bộ các Thánh. Sau lời thỉnh cầu thứ nhất, ĐTC mời gọi toàn thể các tín hữu cầu xin Thiên Chúa toàn năng nhờ Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh, nâng đỡ chúng ta bằng ơn thánh điều mà chúng ta sắp thực hiện. Sau lời thỉnh cầu thứ hai, ĐTC mời gọi cộng đoàn hát Kinh Cầu xin Chúa Thánh Linh. Sau lời xin thứ ba của ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, ĐTC đã tuyên đọc công thức phong thánh:

"Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi cực thánh, để tuyên dương đức tin Công Giáo và tăng tiến đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi suy nghĩ chín chắn, nhiều lần khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em chúng tôi trong Hàng Giám mục, chúng tôi tuyên bố và xác định Chân Phước Gioan XXIII và Gioan Phaolô II là Hiển Thánh, và chúng tôi ghi tên các ngài vào sổ bộ các Thánh và qui định rằng trong toàn thể Giáo Hội, các ngài được được tôn kính với lòng sùng mộ nơi Các Thánh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần."

ĐTC vừa dứt lời, cộng đoàn vỗ tay nồng nhiệt và ca đoàn cùng cộng đoàn ca bài Jubilate Deo (Hãy tung hô Chúa, hãy hát mừng Chúa), trong khi đó, thánh tích của hai vị tân hiển thánh được rước lên cho ĐTC hôn kính trước khi đặt trên một giá nhỏ phía trước bàn thờ. Thánh tích của Đức Gioan XXIII là một mảnh da của Người, và của Đức Gioan Phaolô II là một ống nhỏ đựng máu của thánh nhân.

Trong bài giảng sau bài đọc Tin Mừng bằng tiếng Latinh và Hylạp, ĐTC đã diễn giải bài Tin Mừng về việc Thánh Tôma Tông đồ được Chúa Giêsu Phục Sinh mời gọi động chạm đến những vế thương để tin và đừng cứng lòng nữa. ĐTC nói đến lòng can đảm của hai vị thánh Giáo hoàng không hổ thẹn về những vết thương của Chúa, ngoan ngoãn tuân theo Chúa Thánh Linh trong việc hướng dẫn Dân Chúa, và ĐTC đặc biệt cầu xin Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo hoàng của gia đình, hướng dẫn hành trình của Thượng Hội đồng GM về Gia đình.

Toàn văn bài giảng của ĐTC

"Nơi trọng tâm Chúa Nhật kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, mà Đức Gioan Phaolô II đã muốn gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, có những vết thương vinh hiển của Chúa Giêsu Phục sinh.

Chúa đã tỏ các vết thương ấy lần đầu tiên khi Ngài hiện ra với các Tông đồ, chính buổi chiều tối ngày sau ngày sabát, ngày Phục sinh, nhưng chiều tối hôm ấy không có Tông đồ Tôma; và khi nhưng vị khác kể lại với ông là đã thấy Chúa, ông trả lời là sẽ không tin nếu không nhìn thấy và động chạm đến các vết thương của Ngài. 8 ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra tại Nhà Tiệc Ly, giữa các môn đệ, và có cả Tôma; Ngài ngỏ lời với ông và mời ông chạm đến các vết thương của Ngài. Bấy giờ con người chân thành ấy, con người quen đích thân kiểm chứng, liền quỳ xuống trước Chúa Giêsu và thưa: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28).

Những vết thương của Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với đức tin, nhưng chúng cũng là điều kiểm chứng niềm tin. Vì thế, nơi thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh, những vết thương ấy không biến mất, nhưng tồn tại, vì những vết thương ấy là dấu chỉ trường tồn về tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, và chúng không thể thiếu được để tin nơi Thiên Chúa. Không phải để tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng để tin rằng Thiên Chúa là tình thương, là lòng từ bi, trung tín. Thánh Phêrô, nhắc lại Ngôn sứ Isaia, đã viết cho các tín hữu Kitô: "Từ những vết thương của Người, anh chị em được chữa lành." (1 Pr 2,24; x. Is 53,5).

Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã can đảm nhìn những vết thương của Chúa Giêsu, động chạm đến những bàn tay bị thương và cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu qua. Các vị đã không hổ thẹn vì thân thể của Chúa Kitô, không vấp phạm về Chúa, về thập giá của Ngài (x. Is 58,7); không hổ thẹn vì thân mình của người anh em (x. 58,7), vì nơi mỗi người đau khổ, các vị nhìn thấy Chúa Giêsu. Hai vị là những người can đảm, đầy ơn táo bạo (parresía) của Chúa Thánh Linh, và đã làm chứng cho Giáo Hội và thế giới về lòng từ nhân của Thiên Chúa, về lòng từ bi của Chúa. Các vị đã là những linh mục, giám mục và giáo hoàng của thế kỷ 20. Các vị đã sống những thảm trạng, nhưng không để chúng lướt thắng. Nơi các vị, Thiên Chúa mạnh mẽ hơn; niềm tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc con người và là Chúa tể của lịch sử mạnh mẽ hơn; nơi các vị sự gần gũi từ mẫu của Mẹ Maria mạnh mẽ hơn. Nơi hai vị là những người chiêm ngắm các vết thương của Chúa Kitô và là chứng nhân về lòng từ bi của Chúa có một "niềm hy vọng sinh động", cùng với một "niềm vui khôn tả và vinh hiển" (1 Pr 1,3.8). Niềm hy vọng và niềm vui mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho các môn đệ của Ngài, và không ai và không gì có thể làm cho họ bị thiếu những hồng ân ấy. Niềm hy vọng và niềm vui phục sinh, được thanh luyện qua cái lò từ bỏ, loại trừ sự gần gũi tội lỗi cho đến tột cùng, đến độ cảm thấy buồn nôn vì chén đắng. Đó chính là niềm hy vọng và niềm vui mà hai vị Thánh Giáo hoàng đã lãnh nhận như hồng ân từ Chúa Phục Sinh, và tiếp đến, các vị đã trao tặng dồi dào cho Dân Chúa, và được lòng biết ơn đời đời của họ.

Niềm hy vọng và niềm vui này được cảm nghiệm trong cộng đoàn đầu tiên của các tín hữu ở Jerusalem, như sách Tông đồ công vụ kể lại (x. 2,42-47). Đó là một cộng đoàn trong đó nòng cốt của Tin Mừng được sống thực, nghĩa là tình thương, lòng từ bi, trong đơn sơ và huynh đệ.

Và đó là hình ảnh Giáo Hội mà Công đồng Vatican II đã có trước mắt. Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã cộng tác với Chúa Thánh Linh để phục hồi và canh tân Giáo Hội theo dạng thức nguyên thuỷ, dạng thức mà các thánh qua các thế kỷ đã mang lại cho Giáo Hội. Chúng ta đừng quên rằng chính các thánh đã làm cho Giáo Hội tiến bước và tăng trưởng. Trong việc triệu tập Công đồng Vatian II, Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã để cho Chúa hướng dẫn, và đối với Giáo Hội, Người là một vị mục tử đối với Hội Thánh, một vị hướng đạo được hướng dẫn. Đó chính là một sự phục vụ cao cả Người dành cho Giáo Hội; Người là một vị Giáo hoàng ngoan ngoãn tuân theo Chúa Thánh Linh.

Trong việc phục vụ Dân Chúa, Đức Gioan Phaolô II là vị Giáo hoàng của gia đình. Chính Người đã có lần nói là muốn được nhắc nhớ đến như vị Giáo hoàng của gia đình. Tôi vui lòng nhấn mạnh điều đó trong lúc chúng ta đang sống hành trình Thượng HĐGM về Gia đình và với các gia đình, một hành trình mà từ trời cao, chắc chắn Người đang tháp tùng và hỗ trợ. xin cả hai vị tân Hiển Thánh mục tử của Dân Chúa chuyển cầu cho Giáo Hội, để trong hai năm hành trình Thượng HĐGM này, Giáo hội ngoan ngoãn tuân theo chỉ dạy của Chúa Thánh Linh trong việc phục vụ mục vụ gia đình. Xin cả hai thánh nhân dạy chúng ta đừng coi các vết thương của Chúa Kitô như cớ vấp phạm, tập trung vào mầu nhiệm từ bi của Chúa, luôn hy vọng, luôn tha thứ, luôn yêu thương."

Lời nguyện phổ quát và chào thăm

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng 5 thứ tiếng Tây Ban Nha, Ảrập, Anh, Hoa và Pháp, cộng đoàn đã cầu xin Chúa cho vẻ đẹp của đời sống mới luôn rạng ngời trong Giáo Hội và cho mỗi người nhận biết Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống; cầu xin Chúa Cha đổ Thần Trí trên các tội nhân và những người lầm lạc trong tâm hồn và trong đêm tối được gặp Chúa Phục Sinh; cầu cho những người mới được tái sinh nhờ ơn thánh của các nhiệm tích Vượt Qua được Chúa giữ gìn trong sự thánh thiện và qua hoạt động của họ, mọi người thấy được công việc của Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống. Ý nguyện thứ tư: nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan XXIII, xin Chúa Cha lôi kéo tư tưởng và quyết định của các vị thủ lãnh các dân nước ra khỏi cái vòng oán thù và bạo lực, và để Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống chiến thắng trong các quan hệ của con người với nhau. Sau cùng, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan Phaolô II, xin Chúa Cha luôn khơi lên nơi những người thuộc giới văn hóa, khoa học và chính quyền lòng say mê bênh vực phẩm giá con người và để Chúa Giêsu Phục Sinh và hằng sống được phụng sự nơi mỗi người.

Trong phần rước lễ, 70 phó tế đã mang Minh Máu Thánh đến cho các hồng y, giám mục đồng tế, trong khi 700 linh mục và phó tế khác phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu tại Quảng trường cũng như tại đường Hoà Giải.

Cuối Thánh lễ, ĐTC đã chủ sự phần đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng. Trong bài huấn dụ ngắn trước đó, ngài nồng nhiệt chào thăm và cám ơn các hồng y, đông đảo các giám mục và linh mục đến từ các nơi trên thế giới. Ngài cũng cám ơn các phái đoàn chính thức đến từ bao nhiêu nước, đến đây để tôn kính hai vị Giáo hoàng đã góp phần không thể xoá nhoà cho chính nghĩa phát triển các dân tộc và hoà bình. Ngài không quên cám ơn chính quyền Italia về sự cộng tác quý giá, cũng như thân ái chào thăm các tín hữu thuộc Giáo phận Bergamo và Cracovia nguyên quán của hai vị Giáo hoàng và tất cả các tín hữu tham dự trực tiếp hoặc qua các phương tiện truyền thống Thánh lễ phong thánh này.

Thánh lễ kéo dài 2 giờ 10 phút và kết thúc lúc 12 giờ 10. ĐTC đặc biệt chào thăm Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI trước khi chào các vị trưởng phái đoàn của các nước.


G. Trần Đức Anh OP, Mai Anh

(Nguồn: R. Vatican)



Vào Google gõ mục “Người chết hồi sinh”, ta sẽ thấy có đến hơn 128 ngàn kết quả hiển thị. Rất nhiều những câu chuyện về người chết hồi sinh, người chết sống lại. Đọc cả tháng cũng chưa hết. Rõ ràng việc người chết hồi sinh, hay người chết đi sống lại xưa nay trong thiên hạ chẳng có gì là hiếm. Có người chết lâm sàng, tức chết trên giường bệnh, rồi hồi sinh. Có người chết được đưa vào nhà xác rồi sống lại. Thậm chí có người chết bỏ vào trong hòm rồi, được mấy tiếng sau thì bật dậy gọi: ba ơi, má ơi, cứu con, v,v…


Vậy thì việc Chúa Giêsu sống lại có gì khác lạ, có gì đặc biệt mà cả thế giới Kitô giáo với gần 3 tỉ tín đồ phải mừng một cách long trọng và hân hoan, với bậc lễ trọng nhất trong năm như thế? Thưa sự Phục Sinh hay sống lại của Chúa Giêsu có rất nhiều khác biệt, khác biệt rất lớn.

- Khác biệt lớn thứ nhất: sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được loan báo trước.

Những người may mắn được hồi sinh hay sống lại, có ai đã loan báo trước đó không? Có ai trước khi chết nói với mọi người rằng tao chết 2 ngày, hay 3 ngày sau tao sẽ sống lại, đừng buồn sầu đừng khóc lóc, đừng mua quan tài làm chi cho tốn kém không? Hoàn toàn không. Sự phục sinh hay hồi sinh của họ hoàn toàn không được báo trước, và cũng không có một dấu chỉ nào để báo trước. Giả như có đi nữa thì chỉ là đánh lừa.

Phần Chúa Giêsu thì khác. Chính Ngài đã liên kết về sự Phục sinh với bản thân Ngài khi Ngài nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Ngay trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Ngài đã cho chúng ta một dấu chỉ và một bảo chứng bằng cách phục sinh một số người đã chết, để tiên báo chính Ngài sẽ sống lại. Ngài nói về biến cố này như là “dấu chỉ Giona” và “dấu chỉ Đền Thờ”…. Các môn đệ cũng đã được Ngài loan báo cho biết Ngài sẽ lên Giêrusalem chịu khổ hình, chịu chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Ngài loan báo không chỉ một lần mà đến ba lần, loan báo một cách trang trọng, nghiêm túc.

- Khác biệt lớn thứ hai: Chúa Giêsu phục sinh rồi sẽ không bao giờ chết nữa.

Trước hết, sự sống lại của Đức Kitô không có nghĩa là Ngài trở lại với đời sống trần thế như trường hợp của những kẻ may mắn được hồi sinh, hay của những kẻ được Chúa Giêsu cho sống lại trước cuộc Vượt Qua. Chẳng hạn như con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giairô, hay Lazarô. Dẫu đây đã là một điều quá kỳ diệu đối với con người, song sự sống lại của họ cũng chỉ là sự hồi sinh thân xác. Có ai khi sống lại rồi, khi hồi sinh rồi thì sống mãi thiên thu không? Không. Con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giairô, hay Lazarô, có ai còn sống không? Không. Họ chỉ sống được một khoảng thời gian nào đó rồi cũng phải chết. Chết từ đời tám đế nào rồi ấy!

Trái lại, sự Phục sinh của Đức Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Thánh Phaolô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như sau: “Chúng ta biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì không bao giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,9). Thân xác của Ngài đã được biến đổi hoàn toàn, trở nên một tạo thành mới vượt lên trên thời gian và không gian. Con người của Chúa Giêsu đã hợp nhất trọn vẹn với Ngôi Lời Thiên Chúa vinh quang rạng ngời (x. Pl 3, 21; 1Cr 15, 44). Tuy nhiên, Ngài không phải là hồn ma như vua Saolê đã thấy (1Sm 28, 8). Ngài đã sống lại trong chính thân xác bị thương tích của cuộc khổ nạn, với trọn vẹn nhân tính của mình; dĩ nhiên là nhân tính đã được thần hoá, được biến đổi - nhân tính phục sinh.

- Khác biệt lớn thứ ba: sự Phục Sinh của Chúa Giêsu có ảnh hưởng đối với tất cả những ai tin vào Ngài.

Trong khi sự hồi sinh của những người may mắn được sống lại không có ảnh hưởng gì đối với người khác cả, hoàn toàn không, thì sự phục sinh của Chúa Giêsu có ảnh hưởng lớn lao trên toàn bộ định mệnh không phải của một hay hai người nào đó, mà là của toàn thể nhân loại. Đây là một khác biệt vô cùng lớn. Nói cụ thể hơn, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu có sức mang lại ơn ơn cứu độ đời đời cho tất cả mọi người. Người đã phá tung mồ đá và xuống nơi trú ngụ của các vong linh, tức là Âm phủ hay ngục Tổ tông, để hoàn tất việc loan báo Tin Mừng cứu độ cho những kẻ đã chết.

 Như thế sự kiện Đức Kitô Phục Sinh mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cho toàn thể nhân loại chúng ta. Trước hết, Người đã đánh bại thần chết đúng như lời Kinh Thánh đã nói: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng!” Sau nữa, việc Đức Kitô sống lại, cũng xác nhận Người là Thiên Chúa, và ai thuộc về Đức Kitô là tham dự vào sự sống mới, tức là sự sống thần linh của Người.

Vậy qua Thánh Lễ hôm nay, Giáo Hội muốn cùng với mỗi người chúng ta tuyên xưng rằng Thiên Chúa Cha đã làm cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Đó là niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chúa đã sống lại, Allêluia. Giáo Hội trong niềm vui phục sinh, ngày ngày vẫn muốn lặp lại điệp khúc Allêluia để ca ngợi, thần phục quyền năng vinh hiển của Chúa. Xin cho niềm tin phục sinh của Chúa trở nên động lực thúc đẩy mỗi người chúng ta biết dấn thân, sẵn sàng ra đi để làm chứng cho tình yêu hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh và biến cố của cuộc đời, như Mađalêna, như Phêrô, như Gioan, như các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai.

Các thánh Tông Đồ cũng đã rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới. Là những người ở trong Hội Thánh, chúng ta cũng được mời gọi sống làm sao để loan truyền niềm vui phục sinh cho những người chưa biết Chúa. Không ở đâu xa mà là anh em, bà con láng giềng, và bạn bè ở quanh ta.

Niềm vui Phục Sinh phải được thể hiện qua từng ánh mắt nụ cười, trong từng cử chỉ yêu thương của chúng ta. Niềm vui Phục Sinh được thể hiện qua lời rao giảng như Phêrô can đảm, mạnh dạn nói và làm chứng tại gia đình ông Cornêliô. Nghĩa là giúp người khác khôi phục niềm tin yêu vào Chúa. Niềm vui Phục Sinh được thể hiện qua đời sống mới như lời thánh Phaolô đã dạy: “Anh em đã được sống lại với Đức Kitô”, nghĩa là không còn sống theo những xu hướng của con người cũ: ích kỷ, tham lam, gian dối nữa. 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại và ban sự sống ấy cho chúng con. Ước gì mỗi chúng con luôn sống xứng đáng với tình yêu của Chúa và mỗi ngày sống của con đều là ngày Chúa phục sinh trong niềm vui hân hoan và tin yêu phục vụ. Amen. 


Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Bài giảng của Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp trong Thánh lễ làm phép Dầu tại Nhà thờ Chính tòa Xã Đoài, sáng thứ Ba ngày 15.4.2014
--------------


Anh chị em rất thân mến,

Cũng như mỗi năm, năm nay gia đình giáo phận chúng ta qui tụ về Nhà thờ Chính tòa để kỷ niệm sự kiện Đức Kitô chia sẻ chức vụ tư tế cho các Tông đồ, rồi ngang qua các vị cho tất cả các giám mục và linh mục. Đây là cơ hội hồng phúc để cùng nhau suy niệm về chương trình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như sứ vụ chứng nhân tình yêu của chúng ta giữa xã hội nhiễu nhương này.

Trong bài đọc thứ I, tác giả của sách Isaia phần thứ III trình bày hình ảnh tuyệt vời về ơn gọi ngôn sứ và lý do hiện hữu của người được xức dầu. Chúng ta biết rằng, vào thời điểm đó, nhiều người Do Thái lưu đày đã bắt đầu trở về để tái thiết quê hương. Tuy nhiên, khi đoàn lưu đày trở về cố hương, họ không nhìn thấy hình ảnh đẹp của một quê hương tuyệt vời, quê hương vĩnh cửu, mà sách Isaia phần II đã loan báo. Trái lại, họ phải đối diện với muôn ngàn khó khăn của một cộng đoàn nghèo khổ phải gồng mình lên để tái thiết quê hương hoang tàn đổ nát và nhất là để có thể sinh tồn trên chính mảnh đất tổ đang bị các nhóm người khác chiếm chỗ. Ngỏ lời với những người hồi hương âu lo, nhọc nhằn, hoang mang, nản chí ấy, ngôn sứ động viên họ: 

Thần khí của Đức Chúa ngự trên tôi
vì Ngài đã xức dầu tấn phong tôi
sai đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ
băng bó những tấm lòng tan nát,
công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm
ngày phóng thích cho các tù nhân,
công bố năm hồng ân của Đức Chúa (Is 61,1-2).

Sau này, trong chuyến về thăm quê hương Nazareth, khi vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabat, Đức Giêsu đã long trọng đọc lại bản văn trên của ngôn sứ Isaia. Đọc xong, Người ngồi xuống và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Thật vậy, sứ điệp mà ngôn sứ loan báo đã trở thành chương trình hành động của Đức Kitô. Chính Ngài là Đấng được xức dầu và tấn phong để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân, cách riêng cho  những người nghèo khổ, bị cầm tù, bị áp bức, bị bỏ rơi… Người đến để khai mở thời đại mới, trong đó con người được giao hòa với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại. Trong suốt ba năm truyền đạo, Ngài luôn nhắc đi nhắc lại là Ngài được xức dầu không phải để được ăn trên, ngồi trốc, được thiên hạ cung phụng, mà trái lại để hiến thân phục vụ mọi người, đặc biệt những người nghèo hèn, bệnh tật, cô thân cô thế, bị tù tội, bị áp bức, bị gạt ra bên lề xã hội.

Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về anh ta, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy (…). Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi” (Ga 10, 11-16).

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ. Lễ Dầu năm nay, toàn thể gia đình Dân Chúa thuộc giáo phận Vinh được mời gọi để dâng lên Thiên Chúa Cha “lời nguyện thánh hiến” của Chúa Kitô trong đêm từ biệt linh thiêng ấy: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ” (Ga 17,17). Qua lời nguyện này, Đức Kitô không xin Chúa Cha đưa các Tông đồ ra khỏi trần thế, mà xin Ngài kéo họ ra khỏi con người tham sân si, khỏi toan tính thường tình, phản ứng theo bản năng hay động lực trần tục, để dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý vì sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Chúng ta biết rằng Đức Kitô không chỉ cầu nguyện cho các Tông đồ, nhưng còn cho tất cả những ai nhờ lời các vị mà tin vào Ngài (Ga 17,20), đặc biệt cho các tư tế. Thật vậy, “do bí tích Truyền chức thánh, một số Kitô hữu được đặt làm thừa tác viên có chức thánh (…), như thế họ được thánh hiến và được chỉ định, mỗi người tùy theo cấp bậc của mình, để hướng dẫn đoàn dân Chúa, bằng cách chu toàn các nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và lãnh đạo nhân danh Đức Kitô là Đầu” (Gl 1008). 

Chính vì vậy, thánh lễ hôm nay mang một ý nghĩa hiệp thông và biểu tượng rất đặc biệt đối với linh mục đoàn trong giáo phận. Thật vậy, qua lời tuyên hứa mà các linh mục sẽ công khai lặp lại trong thánh lễ hôm nay, Hội Thánh muốn tất cả các mục tử tái khẳng định quyết tâm bước theo Đức Kitô trên con đường phục vụ cộng đồng Dân Chúa. Với tư cách chủ tế, giám mục sẽ long trọng kêu mời các linh mục công khai lặp lại lời hứa khi lãnh nhận chức linh mục: “Ngày chúng ta lãnh nhận chức thánh vì yêu mến Chúa Kitô và để phục vụ Hội Thánh Người, chúng ta đã vui lòng chấp nhận trách nhiệm phục vụ cộng đoàn được giao phó cho chúng ta. Vậy, anh em có muốn ngày càng gắn bó hơn với Chúa Giêsu và cố gắng noi gương Người mà từ bỏ bản thân và trung thành giữ lời chúng ta đã cam kết không? Theo gương Chúa Kitô…, anh em có muốn thi hành chức vụ của mình một cách nhiệt thành và vô vị lợi không?”

Năm ngoái vào độ này, khi cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu đầu tiên trong cương vị Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu hàng tư tế ra khỏi chính mình và đi đến những “vùng ngoại ô”, những vùng nghèo khổ, nơi có đau khổ, nơi có đổ máu, nơi có sự mù lòa, có thù hận, bạo động, bất công… Theo ngài, “ai không đi ra khỏi chính mình, thì, thay vì làm người trung gian, sẽ từng bước trở thành một người môi giới và một người quản trị. Tất cả chúng ta đều biết sự khác biệt: người môi giới và người quản trị “đã lãnh thù lao của mình rồi”, và bởi lẽ họ không đem chính mạng sống và chính trái tim mình ra để đánh cược” cho sứ vụ. Vì vậy, Ngài ước mong các tư tế biết đem chính mạng sống và chính trái tim mình để đánh cược cho  sứ vụ, trở thành những mục tử chấp nhận dấn thân, lăn lộn, đồng vui cộng khổ với đoàn chiên, đến độ “thấm vào mình mùi chiên”.

Ngày 6 tháng 3 vừa qua, trong cuộc gặp gỡ với các linh mục thuộc Tổng Giáo phận Roma, Đức Thánh Cha đã suy niệm đặc biệt về đề tài lòng thương xót. Ngài cho rằng, “với tư cách là mục tử, chúng ta phải xót thương rất nhiều, rất nhiều”. Dựa trên đoạn Tin Mừng trình bày sự kiện Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi chứng kiến dân chúng mệt mỏi và kiệt lực như đoàn chiên không có mục tử chăm sóc, ngài giải thích: “Chúa Giêsu có tấm lòng của Thiên Chúa, nghĩa là đầy dịu dàng đối với dân chúng, nhất là với những người bị loại trừ, các tội nhân, những bệnh nhân không ai chăm sóc… Vì thế, theo hình ảnh vị Mục Tử Nhân Lành, linh mục phải là người từ bi và thương xót, gần gũi dân chúng và phục vụ tất cả mọi người. Bất cứ ai bị thương tổn trong cuộc sống một cách nào đó, có thể tìm thấy nơi linh mục sự quan tâm và thái độ lắng nghe. Đặc biệt linh mục cần chứng tỏ lòng từ bi qua việc ban bí tích Hòa Giải; biểu lộ tâm tình ấy trong thái độ, trong cách thức đón tiếp, lắng nghe, khuyên bảo và ban phép xá giải…”.

Tôi nghĩ rằng, hơn bao giờ hết và hơn bất cứ nơi nào, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành mục tử từ bi nhân hậu, can đảm dấn thân phục vụ anh chị em của mình tại giáo phận Vinh này. Thật vậy, xét về địa lý, đây là vùng đất nghèo, lại luôn bị thiên tai lụt lội. Về kinh tế, đây là vùng đất nhiều người ít của và chậm phát triển, thiếu hụt trầm trọng công ăn việc làm. Biết bao người trẻ bị bó buộc phải “tha phương cầu thực”! Về phương diện xã hội, nơi chiếc nôi của cách mạng này vẫn là vùng đất nặng giáo điều và ít sáng tạo nhất. Đại đa số giáo dân giáo phận Vinh sinh sống ở miền quê, thất học và ít cơ hội thăng tiến, vì vậy là thành phần nghèo và thiệt thòi nhất trong xã hội. Thêm vào đó, vì niềm tin Kitô giáo, vô hình trung họ phải gánh chịu thêm một số thiệt thòi và phân biệt đối xử khác. Nhưng, bất chấp tất cả, họ vẫn rất kiên cường và trung tín với Giáo Hội. Nếu hôm nay Đức Giêsu phải chứng kiến tình trạng nghèo đói, thiệt thòi,  nhọc nhằn, khổ đau, bị hiểu lầm, bị tổn thương, bị nạt nộ và đang còng lưng dưới gánh nặng cuộc đời… của giáo dân Vinh, chắc chắn Chúa không thể không chạnh lòng xót thương.

Anh em linh mục thân mến, trong tư cách là các thừa tác viên của Giáo Hội tại Nghệ-Tĩnh-Bình này, chúng ta có nhiệm vụ giữ cho sứ điệp tình yêu và lòng thương xót của Chúa được luôn sinh động, trong các bài giảng, các quyết định mục vụ cũng như trong cách đối xử, tiếp xúc giữa cha Quản xứ với giáo dân. Làm sao giảm thiểu tối đa những tiếng thở dài, nài van, buồn tủi, than khóc nơi đàn chiên của Đức Kitô tại mảnh đất này. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta phải có trách nhiệm về nỗi vui, nỗi buồn, âu lo và hy vọng của anh chị em chúng ta.
Lúc này đây, hơn bao giờ hết, lời nhắn nhủ của thánh Phaolô như đang văng vẳng bên tai chúng ta: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, một lòng mến, một tâm hồn, một ý hướng như nhau… Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,1-5). Amen. 


Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp

GPVO - Sáng ngày 15.3.2014, tại nhà thờ Chính toà Xã Đoài, hình ảnh một Giáo hội duy nhất, hiệp thông trong yêu thương của đại gia đình Giáo phận Vinh đã được diễn tả cách linh thánh, sống động và sâu xa khi đầy đủ mọi thành phần dân Chúa đã quy tụ bên quý Đức Cha trong ngôi thánh đường mẹ của Giáo phận, để sống bầu khí ấm cúng gia đình quanh bàn tiệc thánh, trong thánh lễ dầu - thánh lễ biểu trưng của mối hiệp thông, như Đức Cha chủ tế Phaolô Nguyễn Thái Hợp nhấn mạnh trong thánh lễ.

Đó là trở về nguồn sống mối hiệp thông sâu xa cá vị với Thiên Chúa, mà các tư tế của Người được mời gọi tái xác tín và canh tân. Chính ý nghĩa của thánh lễ hôm nay nhắc nhớ cho mọi người rằng, các ngài được chia sẻ cùng một chức tư tế của Chúa Giêsu, vị Thượng Tế duy nhất đích thực. Chính vì thế, một khi trở về với "Cội Nguồn", họa nơi chính mình hình ảnh sống động của "Nguồn"... thì  khi đó sứ vụ được mặc lấy từ đó sẽ diễn tả cách trung thực và ý nghĩa hơn. Qua đây, Đức Cha chủ chăn Giáo phận mời gọi các linh mục của Chúa thẩm định lại mối tương giao cá vị của mỗi cá nhân với Người, mối tương giao vốn phát sinh và làm nên căn tính của ơn gọi linh mục cũng như là nguyên lý nền tảng của sứ vụ linh mục. Điều đó thôi thúc các ngài kiếm tìm Thiên Chúa luôn luôn trong mọi hoàn cảnh với toàn thể mọi quan năng, một sự kiếm tìm luôn làm dao động và biến đổi trọn vẹn con người vốn đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua việc xức dầu.
Chính mối hiệp thông này đưa dẫn tới một mối hiệp thông khác, là hiệp thông trong ơn gọi và sứ vụ mà chính việc các linh mục lặp lại những lời thiêng liêng khi chịu thánh chức như một thúc bách. Ơn gọi và sứ vụ linh mục phát xuất từ Chúa Kitô mời gọi các ngài trở thành một Chúa Kitô thứ hai (Alter Christus), nghĩa là sống và thi hành sứ vụ như chính Người, Đấng đã luôn thuộc về Chúa Cha, Đấng đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống (Mt 20,28), Đấng đến để quy tụ đàn chiên, và đến để cho chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Chính vì thế, nơi con người, cuộc sống và sứ vụ của các ngài được mời gọi diễn tả sống động lòng thương xót của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu; "ra khỏi mình" để đến với con người hôm nay, mở lòng ra bao dung lấy những mảnh đời giữa vô vàn cảnh huống của cuộc sống bằng tất cả sự cảm thương và lòng nhân ái của Chúa; là "thấm vào mình mùi của chiên" (ĐGH Phanxicô) để 'vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của chính môn đệ Chúa Kitô' (Gaudium Et Spes,số 1)
Thánh lễ hôm nay còn diễn tả mối hiệp thông sống động giữa linh mục đoàn với Đức Giám mục của mình, mà nghi thức lặp lại lời tuyên hứa trong ngày lãnh nhận tác vụ thánh của các linh mục với quyết tâm trung thành, vâng phục, phụng sự Chúa và Giáo hội; cũng như cộng tác với ngài trong việc thánh hiến dầu thánh diễn tả. Đây là giây phút đặc biệt mời gọi các linh mục diễn tả sống động dấu chỉ của đức tin, dấu chỉ của ơn gọi mà các ngài đã và đang dấn bước. Cùng với đó, mối hiệp thông sinh động khác nữa cũng được làm nổi bật đó là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn, giữa các thành phần dân Chúa trong giáo phận. Tất cả ấm lên bầu khí của một gia đình.
Thánh lễ Dầu còn là dịp quan trọng để mọi tín hữu tái khám phá ý nghĩa của các loại dầu được làm phép và thánh hiến, nhất là dầu thánh, biểu tượng cho Chúa Thánh Thần và quy chiếu về Chúa Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa. Qua bí tích Rửa tội, mọi người đã được thánh hiến để trở thành dân riêng của Thiên Chúa, được thuộc về Đức Kitô. Nhờ đó các Kitô hữu được hiệp nhất trong cùng một đức tin và một phép rửa. Đây chính là nền tảng căn bản cho mọi sự hiệp thông khác trong đời sống Giáo hội. Như thế, Kitô hữu có nghĩa là “những người được xức dầu”, thuộc về Chúa Kitô. Ý thức sâu xa bổn phận làm người Kitô hữu, dân được xức dầu, được kín múc sức mạnh từ Chúa Thánh Thần, để ra đi rao truyền sứ điệp cứu độ. Điều này mời gọi các Kitô hữu trở nên dân tư tế cho thế giới, nỗ lực làm cho Thiên Chúa Hằng Sống trở thành hữu hình đối với thế giới hôm nay, làm chứng cho Người và dẫn đưa thế giới đến với Người. Ước gì ý nghĩa đó luôn thường trực trong đời sống đức tin của chúng ta.
"Xin cha lấy sự thật mà thánh hiến họ" (Ga 17,17), Lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ trước khi Ngài về trời, cũng là tâm tình mà Đức Cha Phaolô mời gọi cộng đoàn dân Chúa nguyện cầu cho quý Đức cha, quý cha trong Giáo phận. Để chính ơn thánh của Người giải phóng các ngài ra khỏi những "tham sân si" của nhân sinh, vượt lên trên những thách đố của thời đại mới, vượt thắng những trở ngại khó khăn nơi một giáo phận nghèo.... để sống cho những thực tại cao cả, đáp lại triệt để tiếng gọi từ Trời Cao, làm triển nở ơn thánh và mang lại sức sống dồi dào cho dân Chúa. 


PM Lê Hùng

Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật Lễ Lá - Năm A
Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật Lễ Lá - Năm A

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ, NĂM A

Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

 

Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66
-----------------
1. Đau khổ của Đức KitôTrong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào?
Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận  tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?
Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội.
Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.
Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?
Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.
 

 

2. Lễ lá – Mt 21,1-11.

Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.
Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.
Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.

 

3. Con đường Chúa đi – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.
Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.
Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.
Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.
Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.
Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.
Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.
2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?
3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?

 

4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

 

5. Đức Giêsu đối diện với cái chết

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hoà. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.